|
17h30 ngày 7-5-1954, lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm của Tướng De Castries, đánh dấu thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ. |
Trong Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12-12-1946), Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã vạch rõ đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp là kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính, trường kỳ, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc… Tiếp đó, trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến (19-12-1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”. Đây là định hướng chiến lược đối với toàn dân ta ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước kia chỉ đánh nhau về mặt quân sự, nhưng ngày nay đánh nhau về đủ mọi mặt, quân sự, kinh tế, chính trị, tư tưởng… Không dùng toàn lực lượng của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó thì không thể nào thắng lợi được”.
Vì thế, để đánh bại chiến tranh tổng lực của kẻ thù, phải dùng sức mạnh của toàn dân tộc, phải chú trọng xây dựng sức mạnh quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và ngoại giao, trong đó sức mạnh về quân sự có vai trò quyết định, tạo đà, tạo thế cho các mặt trận khác phát triển. Toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt đảng phái, trai gái, trẻ già, giai cấp, tín ngưỡng và nghề nghiệp… đều phải trở thành chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận: Quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa. Thực hiện khẩu hiệu: Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến. Mỗi mặt trận có vị trí, tác dụng khác nhau nhưng cùng thống nhất ở mục đích là tạo ra sức mạnh để giành thắng lợi cuối cùng.
Trên mặt trận chính trị, Đảng ta đã quy tụ, tập hợp được sức mạnh to lớn của nhân dân từ Bắc đến Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, từ thành thị đến nông thôn, từ vùng tự do đến vùng tạm bị chiếm; phát huy được sức mạnh của các yếu tố nội lực, truyền thống và con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường của dân tộc. Mỗi người dân yêu nước trên từng cương vị của mình đều tích cực tham gia sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, đóng góp vào chiến thắng Điện Biên Phủ.
Mặt trận kinh tế trong suốt 9 năm kháng chiến được Đảng và Chính phủ đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm khuyến khích phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm; ban hành nhiều sắc lệnh giảm tô, giảm tức, xóa nợ, chia lại ruộng đất cho nông dân sản xuất; chú trọng phát triển ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp quốc phòng; đẩy mạnh sản xuất những mặt hàng thiết yếu… Nhờ đó, nền kinh tế ngày càng thu được những thành tựu quan trọng, tạo cơ sở, nền tảng để huy động nguồn lực cho kháng chiến.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, với ý chí “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”, đồng bào các dân tộc trong cả nước, đặc biệt là đồng bào Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu 3, Liên khu 4 đã đóng góp hơn 260 nghìn dân công (tính ra thành 14 triệu ngày công), 20.991 xe đạp thồ và hàng chục nghìn phương tiện vận chuyển thô sơ. Về bảo đảm vật chất, đồng bào đã đóng góp cho chiến dịch 25.056 tấn lương thực, 907 tấn thịt và hàng nghìn tấn thực phẩm khác. Chỉ tính riêng số vật phẩm đã chuyển được ra mặt trận là hơn 20 nghìn tấn, trong đó có 14.950 tấn gạo, 266 tấn muối, hơn 62 tấn đường, 577 tấn thịt và 565 tấn thức ăn khô.
Trên mặt trận văn hóa - giáo dục, Đảng chủ trương vừa đánh đổ văn hóa ngu dân, nô dịch và ngoại lai phản động, vừa xây dựng nền văn hóa mới của nước Việt Nam độc lập theo ba nguyên tắc Dân tộc, khoa học, đại chúng, tạo tiền đề và cơ sở để tiến lên xây dựng nền văn hóa mới, tiến bộ. Nền giáo dục mới không ngừng phát triển, đạt được mục tiêu đào tạo con người mới, nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là xây dựng được đội ngũ cán bộ, trí thức có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc. Cùng với đó, nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật được đẩy mạnh, góp phần nâng cao tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, yêu chế độ mới, cổ vũ, động viên quân và dân ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ dồn sức cho chiến thắng.
Ở mặt trận quân sự, Đảng đặc biệt chú trọng xây dựng thế trận “cả nước đánh giặc” với khẩu hiệu “Mỗi người dân là một chiến sĩ”, “Mỗi xóm làng là một pháo đài”, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân. Thế trận chiến tranh nhân dân của ta phát triển ngày càng vững chắc, rộng khắp, khiến đội quân xâm lược không những phải đối mặt với bộ đội chủ lực mà còn phải đối diện với thế trận toàn dân đánh giặc. Thế trận đó tạo thành “tấm lưới thiên la địa võng” khổng lồ thường xuyên uy hiếp, vây hãm quân thù, khiến cho quân Pháp rơi vào những mâu thuẫn không sao gỡ nổi.
Dựa vào thế trận toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt, trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, ta liên tiếp mở các đòn tiến công chiến lược khắp các chiến trường, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, buộc thực dân Pháp phải phân tán lực lượng cơ động chiến lược ra nhiều hướng, đẩy địch lâm vào thế bị động đối phó, không thể thực hiện được ý đồ chiến lược do Nava vạch ra. Quyền chủ động trên chiến trường thuộc về ta. Điện Biên Phủ trở thành nơi địch tập trung binh lực mạnh nhất - điều nằm ngoài dự kiến trong “Kế hoạch Nava”.
Với lực lượng kháng chiến lớn mạnh cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, ta đã huy động 5 đại đoàn chủ lực bao vây tiến công địch và 26 vạn dân công liên tục phục vụ chiến dịch. Bằng tinh thần chiến đấu anh dũng của các chiến sĩ ngoài mặt trận, sự chi viện to lớn của hậu phương, trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ đã kết thúc với thắng lợi hoàn toàn về ta.
Phối hợp với đấu tranh quân sự, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở mặt trận ngoại giao. Ngày 21-7-1954, các văn kiện của Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết. Pháp phải chấm dứt chiến tranh xâm lược và rút quân về nước, phải công nhận độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Thắng lợi của ta trong cuộc tổng tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ đã khẳng định sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam, trí tuệ và bản lĩnh con người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Dưới ánh sáng đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sức mạnh cả nước đồng lòng, toàn dân đánh giặc, sức mạnh của tiền tuyến và hậu phương, vật chất và tinh thần, trong nước và thời đại… đã được huy động, phát huy lên tầm cao mới.
Bằng bản lĩnh và sức mạnh đó, ta đã từng bước làm chuyển biến lực lượng, từ yếu hóa mạnh, ít thành nhiều, tạo nên sức mạnh áp đảo để giành thắng lợi cuối cùng. Bài học về phát huy sức mạnh toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện hiện nay.